PHẦN II: Miền quê mới, Một thuở yên vui Tháng ngày như lá vàng rơi Êm đềm Giáo xứ niềm vui đong đầy Cuộc đời khi đó sum vầy Sáng lên đồi rẫy chiều cày ruộng nương Êm đềm mái ấm tình thương Cơm ăn dưa muối đông con ngon lành Đêm về gió mát trăng thanh Vi vu sáo thổi vọng ngân xa mờ Trẻ con vui hát đồng giao Tự tình trai gái hẹn hò duyên trao Cuộc đời vui thú biết bao Khề khà nhấp chén rượu sao yêu đời! Đêm về nghe tiếng ầu ơi Mẹ ru con ngủ cho say giấc nồng Đong đưa tiếng vọng thời gian Bỗng dưng nhung nhớ về làng quê xa Nhớ câu ví dặm quê nhà Sông La bến nước đò đưa câu hò *** Bấy giờ vào hạ sáu mươi (1960) Ông cha người xứ Bắc Kỳ về thay Tên là Chính Trực thẳng ngay (Giuse Trịnh Chính Trực) Con người bình dị, tính thời giản đơn Ba ba áo vải nâu sòng Đi thăm làng xóm hoà đồng giáo dân Siêng năng lao động tay chân Trồng cây hoa cảnh làm vườn hăng say Vừa về giáo xứ làm ngay Đầu tiên mua sắm máy xay, máy cày Cho dân đỡ bớt sức người Nhọc nhằn chi hỡi kiếp đời nông dân Dựng xây nhà xứ khang trang Hoa viên Đức Mẹ đầu làng đẹp xinh (1962) Núi cao tượng Chúa uy linh (1963) Nhà trường vườn trẻ công trình vừa xong Sáu năm công nghiệp vô cùng Giáo dân trìu mến nỡ lòng ra đi!! *** Cảnh đời khi đó yên vui Được mùa đậu lạc lúa khoai dư đầy Nhà tôn vách ván đổi thay Áo quần mặc đẹp đã thay nâu sòng Cửa nhà xây cất đàng hoàng Sớm chiều ấm nước chè xanh sum vầy Chuyện đời thời sự lai rai Miếng trầu nhỏm nhẻm, điếu cày phà hơi Khề khà nâng chén rượu cay Quây quần làng xóm bên nhau đỡ đần Gặp khi tối lửa tắt đèn Bà con lối xóm cũng liền có nhau *** Mỗi miền tập quán khác nhau Thọ Ninh chịu khó cần cù siêng năng Làm ăn kinh tế cạnh tranh Ăn tiêu tặn tiện để dành khi đau Một hai quyết chí làm giàu Đàn bà chấp chánh thầu bao việc nhà Rẫy nương chợ búa chẳng tha Ra đường trưng diện lượt là điểm trang Đàn ông tiếc việc tham công Con người bình dị nhục nhằn tấm thân Khi giàu trưởng giả làm sang Thọ Ninh sĩ diện phô trương mặt ngoài Tính thời ưa thích tếu hài Múa ca văn nghệ chẳng hay chút nào *** Đông Tràng đoàn kết sum hoà Mô hình chuồng trại vườn nhà kề nhau Người chung giáo họ tương thân Đàn bà lam lũ nhưng không thực quyền Đàn ông bộp bạp nói năng Con người nhàn nhã bát văn lè phè Chỉ làm việc nặng chảo che Đi rừng cưa kéo chẳng nề gian nan Làm ăn chẳng thích đua tranh Đàn bà quán xuyến đảm đang việc nhà Nói năng nghe tưởng chua ngoa Nhưng mà mộc mạc thật thà chân quê Ban đầu nhà cửa rèm che Áo tơi kết lá mặc che thân người Múa ca văn nghệ tuyệt vời Nhạc công ca trưởng đông người tham gia Chung tay góp sức xứ nhà (Thánh) An Tôn phù trợ, họ nhà bình yên *** Người làng Yên Phú một bên Sống vui họ tộc bà con quây quần Phong lưu cuộc sống an nhàn Làm ăn kinh tế chẳng màng bon chen Thú vui cờ quạt đỏ đen Đàn bà ăn trắng mặc trơn ra đường Đàn ông nhàn nhã vẫn thường Lai rai điếu thuốc rềnh ràng chè xanh Đàn bà nhà cửa gọn gàng Học hành Yên Phú giỏi giang nhất làng Cử nhân Tiến sĩ vang danh Cửa nhà xây cất trong làng bậc trung *** Đàng trong giáo họ Kẻ Tùng Bà con họ tộc sống chung an hoà Con người thư thái hiền hoà Làm ăn cá biệt luôn là đua tranh Đàn bà dáng đẹp dịu dàng Đàn ông lịch lãm ra đường tiếp giao Làm ăn kinh tế tầm cao Tiên phong mua sắm xe cày máy xay Đàn ca hát xướng cũng hay Ăn chơi cũng máu làm ăn cũng liều *** Ban đầu bốn họ khác nhiều Về sau chung sống cũng đều giống nhau Dòng đời thấm thoát trôi mau Sáu ba đảo chính (1963) đổi thay chính quyền Cộng Hoà Đệ Nhất rã tan Người dân tiếc nuối muôn vàn nhớ thương Cụ Ngô Đình Diệm cưu mang Đưa dân lên chốn Trung phần cao nguyên Người dân lòng những biết ơn Thế thời khi ấy vô cùng hỗn mang Lòng người xao xác tan hoang Bên dòng thời cuộc chiến tranh tương tàn Sau rồi chiến cuộc leo thang Động viên đi lính người làng bổ xung *** Gặp khi cha Đỗ Trúc Đường (1966) (Gregorio Đỗ Trúc Đường) Ngày về nhà xứ vắng tanh không người Giáo dân xa lạ với Ngài Con người khắc khổ dáng gầy mặt nghiêm Nhưng mà cha chỉ chuyên tâm Thanh niên giáo lý hôn nhân vững vàng Hội đoàn Đức Mẹ rỡ ràng Thiếu niên Dũng Chí Hùng Tâm lập đoàn Bầu ban Giáo xứ Chấp hành Nội quy Công giáo tiến hành mới ra Cuộc đời thánh thiện của cha Khó nghèo vâng phục cũng là châm ngôn Ba năm giáo xứ vui buồn Mùa thu sáu chín (1969) bề trên chuyển Ngài *** Giáo dân cơ nghiệp phát tài (1970) Xây nhà tôn ngói phòng lồi ô văng Xi măng nền lán ra sân An cư lạc nghiệp có phần thảnh thơi Mậu Thân (1968) chiến sự lâm nguy (Ấp) Tân sinh, Chiến lược lũy vây quanh làng Đàn ông đi lính nghĩa quân Nhân dân Tự vệ trong làng quẫn quanh Đêm về súng nổ bàng hoàng Người dân lo lắng chẳng màng làm ăn *** Bỗng đâu Tuyên uý cha Tâm (Phê Rô Lê Hùng Tâm) Bài sai về xứ, trấn an dân làng (1969) Con người quyết đoán nhiệt thành Cùng chung tâm nguyện đồng hành giáo dân Lửa lòng thiêu đốt tâm can Là lòng mến Chúa châm ngôn của ngài Vừa về ngài đã góp tay Tháng mười, sáu chín (1969) dựng xây thánh đường Đặt viên đá móng chân tường Tiếp theo Trung học năm phòng lên khuôn Tháng tư bảy mốt (1971) khánh thành Thánh đường rộng lớn khang trang tráng hoành Biết bao công sức dân làng Nhờ cha huy động (lính) công binh chung lòng Chỉ huy đôn đốc Trần Công Thầy Đoài thầy Bảo góp công phụ vào (Đoàn) Thanh Sinh Công mới lập ra Can vê Thánh giá tượng đài (G.B) lên cao Sáu năm khó nhọc công lao Mồ hôi máu chảy phù sa đất này Làm cho mảnh đất sinh sôi Cây đời chưa kịp đâm chồi tán xanh Mà sao đã phải ngỡ ngàng Cha con sao nỡ đoạn đành biệt ly Ra đi không nói lời chi (14.03.1975) Để cho giáo xứ bùi ngùi nhớ thương Một đời sống hết nghĩa tình Để nên tấm bánh không ngừng lễ dâng Chân thành xin thắp nén hương Ghi lòng tạc dạ công ơn của ngài Con chiên vẫn mãi ngậm ngùi Cha về thiên quốc độ trì đoàn con Di Tĩnh Đắc *** Những hình ảnh Phụ lục.... Xin mời các bạn xem tiếp Phần III: Quê hương ơi! Trải qua một cuộc bể dâu